Bạn đang xem bài viết Bè Ca Mắc Là Gì? Ý Nghĩa & Cách Sử Dụng “Bè Ca Mắc” Trên Tiktok được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Wyfi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bè ca mắc là gì? Ý nghĩa của cụm từ Bè ca mắc
1. Bè ca mắc nghĩa đen là gì?
Trong từ điển tiếng Việt, cụm từ “Bè ca mắc” không mang một ý nghĩa nào cả. Có rất nhiều người đã đưa ra những giải thích cho cụm từ này. Tuy nhiên, đa phần đều là các giải thích không chính xác.
2. Bè ca mắc nghĩa bóng là gì?
Bè ca mắc là một trong những trend từ lóng, đọc lái là “mẹt ba cắc“ tức “Kặ* 3 mét”. Cụm từ nói quá này dùng để miêu tả chiều dài của bộ phận nhạy cảm nam. Bởi theo khoa học, không thể có chiều dài như vậy.
Bè ca mắc trên TikTok nghĩa là gì?
Trên TikTok, cụm từ “Bè ca mắc” thường được sử dụng với ý nghĩa là “mẹt ba cắc“ hay “Kặ* 3 mét”. Đây là cách nói giảm, nói tránh khi nhắc đến bộ phận nhạy cảm của nam giới.
Đa phần, giới trẻ chính là người thường xuyên sử dụng cụm từ này. Đặc biệt, trên các nền tảng mạng xã hội, cụm từ này cũng được lan truyền một cách nhanh chóng.
Bè ca mắc có phải là một loại cà?
Cây cà, có tên khoa học là Solanum melongena L. và thuộc họ cà – Solanaceae. Cây này có nguồn gốc từ Ấn Độ và đã được trồng ở Việt Nam từ lâu. Nhờ quá trình chọn lọc và trồng trọt, đã tạo ra nhiều loại cà khác nhau, trong đó phổ biến nhất là cà bát, cà pháo, cà xoan, cà tím và cà dái dê.
Bên cạnh đó, theo bác sĩ Lê Thân từ Bệnh viện Y học Cổ truyền Quảng Nam, tác giả cuốn sách “Thuốc ở quanh ta”, cho biết tất cả các loại cà như cà pháo, cà tím, cà bát đều thường được sử dụng để nấu hoặc muối ăn. Đây là nhóm rau quả giàu vitamin P giúp vững chắc các mạch máu, chống xuất huyết và vitamin E giúp chống lão hóa.
Ngoài ra, trong cà còn chứa chất nightshade soda, có tác dụng chống ung thư và ức chế sự tăng sinh khối u trong bộ máy tiêu hoá. Chính vì thế, cà có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị phụ trợ cho người mắc các loại u bướu và ung thư.
Cách sử dụng cụm từ Bè ca mắc
Theo cách giải thích ở trên, bạn thực sự phải hết sức cẩn trọng khi dùng cụm từ “Bè ca mắc”. Bởi vì tiếng Việt rất đa dạng về ngữ nghĩa, đặc biệt trong mỗi ngữ cảnh cũng sẽ có những ngữ nghĩa khác nhau.
Bên cạnh đó, bạn cũng chỉ nên dùng cụm từ “Bè ca mắc” trong các cuộc trò chuyện, tán gẫu với bạn bè. Trong các văn bản hành chính cũng như khi giao tiếp với người lớn, bạn nên tuyệt đối tránh không sử dụng cụm từ này. Không chỉ gây nhầm lẫn cho người đọc mà đôi khi cụm từ “Bè ca mắc” còn gây ra những hiểu lầm, rắc rối không đáng có.
Bè ca mắc và lí do phải giữ văn hóa trên mạng xã hội
Để tạo ra một môi trường trực tuyến lành mạnh và an toàn cho tất cả mọi người, việc giữ văn hóa trên mạng là rất quan trọng. Tương tự như văn hóa ở đời thường, văn hóa trên mạng bao gồm các giá trị, thái độ và hành vi mà người dùng mạng đề cao và tôn trọng.
Tuy nhiên, các hành vi không đúng mực trên mạng, chẳng hạn như lăng mạ hoặc phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay bất kỳ đặc điểm cá nhân nào khác. Không chỉ gây tổn thương cho những người bị nhắm đến, mà còn phá vỡ sự đoàn kết và tin tưởng trong cộng đồng mạng.
Ngoài ra, để tạo nên một cộng đồng TikTok văn minh, chúng ta không chỉ nên chia sẻ những video hài hước mà còn nên chia sẻ các kiến thức hữu ích. Điều này giúp chúng ta tăng cường tính nhân văn và đem lại sự tiếp cận với những điều mới mẻ cho cộng đồng.
Việc sử dụng các từ ngữ lóng tiếng trên mạng xã hội không phải là một hành động đáng lên án. Tuy nhiên, nếu không hiểu rõ ý nghĩa của chúng, có thể dẫn đến những hiểu lầm hoặc tình huống không đáng có. Chính vì thế, hãy luôn cẩn thận trong cách dùng từ của mình.
Từ Trái Nghĩa Với Từ Bạn Bè Trong Tiếng Việt Là Gì?
Tìm hiểu về từ trái nghĩa và từ bạn bè trong Tiếng Việt. Định nghĩa, ví dụ và lợi ích của việc biết từ này. từ trái nghĩa với từ bạn bè trong Tiếng Việt là gì??
Từ trái nghĩa và từ bạn bè là hai khái niệm quan trọng trong Tiếng Việt. Việc hiểu rõ ý nghĩa và cách sử dụng chúng có thể giúp ta trở nên giàu hơn về ngôn ngữ và giao tiếp. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về từ trái nghĩa và từ bạn bè trong Tiếng Việt, danh sách các từ trái nghĩa với từ bạn bè, và cách sử dụng chúng trong các ví dụ cụ thể.
Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, trái ngược với nhau. Trong khi đó, từ bạn bè là những từ có ý nghĩa tương đồng, gần gũi với nhau.
Biết từ trái nghĩa giúp mở rộng vốn từ vựng và hỗ trợ trong việc viết và nói Tiếng Việt một cách chính xác và linh hoạt. Trong khi đó, từ bạn bè giúp ta diễn đạt ý nghĩa một cách tường minh và truyền đạt thông điệp một cách chính xác.
Tiếng Việt có nhiều từ trái nghĩa với từ bạn bè. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết về danh sách các từ trái nghĩa này trong phần tiếp theo.
Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ như “tốt” và “xấu”. Trong khi đó, từ bạn bè là những từ có ý nghĩa tương đồng, gần gũi với nhau, như “lớn” và “to”.
Từ trái nghĩa: “cao” – “thấp”, “mới” – “cũ”, “đẹp” – “xấu”.
Từ bạn bè: “lớn” – “to”, “nhỏ” – “bé”, “rộng” – “hẹp”.
“cao” – “thấp”
“mới” – “cũ”
“đẹp” – “xấu”
“lớn” – “to”
“nhỏ” – “bé”
“rộng” – “hẹp”
“Cao” và “thấp” đề cập đến chiều cao của một đối tượng. Ví dụ: “Tòa nhà cao” và “Cây cỏ thấp”.
“Mới” và “cũ” diễn tả sự mới mẻ và sự đã qua thời gian. Ví dụ: “Bài viết mới” và “Xe cũ”.
“Đẹp” và “xấu” nói về sự hấp dẫn và sự không hấp dẫn. Ví dụ: “Người đẹp” và “Hoa xấu”.
“Lớn” và “to” đề cập đến kích thước hoặc quy mô của một đối tượng. Ví dụ: “Người lớn” và “Cái túi to”.
“Nhỏ” và “bé” diễn tả kích thước hoặc tuổi tác của một đối tượng. Ví dụ: “Cái nhà nhỏ” và “Em bé”.
“Rộng” và “hẹp” đề cập đến độ rộng của một không gian. Ví dụ: “Đường rộng” và “Con đường hẹp”.
“Tòa nhà cao, cây cỏ thấp.”
“Bài viết mới, xe cũ.”
“Người đẹp, hoa xấu.”
“Người lớn, cái túi to.”
“Cái nhà nhỏ, em bé.”
“Đường rộng, con đường hẹp.”
Ví dụ 1: “Tòa nhà cao, cây cỏ thấp.” Mô tả sự khác biệt về chiều cao giữa tòa nhà và cây cỏ.
Ví dụ 2: “Bài viết mới, xe cũ.” So sánh sự mới mẻ của bài viết với sự đã qua sử dụng của xe cũ.
Ví dụ 3: “Người đẹp, hoa xấu.” So sánh sự hấp dẫn của người đẹp với sự không hấp dẫn của hoa xấu.
Ví dụ 4: “Người lớn, cái túi to.” So sánh kích thước của người lớn với kích thước của cái túi to.
Ví dụ 5: “Cái nhà nhỏ, em bé.” So sánh kích thước của căn nhà với tuổi tác của em bé.
Ví dụ 6: “Đường rộng, con đường hẹp.” So sánh độ rộng của đường lớn với độ rộng của con đường hẹp.
Biết từ trái nghĩa giúp mở rộng vốn từ vựng và hỗ trợ trong việc viết và nói Tiếng Việt một cách chính xác và linh hoạt. Sử dụng từ bạn bè giúp diễn đạt ý nghĩa một cách tường minh và truyền đạt thông điệp một cách chính xác.
Việc thường xuyên thực hành và áp dụng từ trái nghĩa và từ bạn bè trong việc học Tiếng Việt sẽ giúp bạn làm giàu vốn từ vựng của mình. Hãy đọc sách, báo, và tham gia vào các hoạt động giao tiếp để nắm vững những từ này và biết cách sử dụng chúng một cách linh hoạt.
Có hàng triệu khách hàng Tiềm Năng đang xem bài viết này
Bạn muốn có muốn đưa sản phẩm/dịch vụ thương hiệu của mình lên website của chúng tôi
Liên Hệ Ngay!
Ca Dao – Dân Ca Là Gì? – Sentayho.com.vn
1. Khái niệm ca dao – dân ca
Còn dân ca là những bài hát dân gian do quần chúng nhân dân sáng tác, diễn xướng và lưu truyền. Đó là những bài hát có hoặc không có chương khúc, phổ biến trong dân gian ở từng vùng, miền, có quan hệ với sinh hoạt văn hóa tinh thần ở đó (Quan họ Bắc Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, Hò Đồng Tháp…) hoặc lưu hành rộng rãi ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về âm nhạc. Ở dân ca, phần lời và phần nhạc điệu cùng thể thức diễn xướng gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Dù định nghĩa riêng từng khái niệm nhưng ta thấy toát lên từ các ý kiến nêu trên là sự quan tâm đến mối quan hệ của ca dao và dân ca. Nói như ông Hoàng Tiến Tựu, dân ca và ca dao là hai khái niệm phản ánh hai thực thể khác nhau nhưng có quan hệ với nhau rất mật thiết.
Tuy nhiên đáng chú ý chính là những định nghĩa dùng thuật ngữ kép “Ca dao dân ca” của các tác giả của sách giáo khoa văn 10, tập 1. Ông Chu Xuân Diên cho rằng Ca dao dân ca là tên gọi chung các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời thơ và giai điệu nhạc, nội dung miêu tả những tâm trạng, những tư tưởng và tình cảm của con người. Phần lớn lời thơ của dân ca được gọi là ca dao. Mặt khác, ca dao không chỉ là lời hát, mà còn là lời nói (dùng xen vào lời nói thường). Tương tự, ông Đỗ Bình Trị định nghĩa dân ca – ca dao là tên gọi chung các thể loại trữ tình dân gian. Trong diễn xướng đó là những bài ca, là thơ được hát lên theo những giai điệu nhạc nhất định. Các thể loại dân ca có bản chất chung là trữ tình (tức là chủ yếu biểu hiện những tâm trạng, những cảm nghĩ của con người) và khác nhau về chức năng sinh hoạt là chính. Và theo ông, thuật ngữ ca dao và dân ca hoàn toàn tương đương với nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, đây là một khái niệm bao hàm ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là lối hát (tức là hình thức sinh hoạt ca hát hay phương thức diễn xướng), có hát trong lễ hội và hát trong ngày thường (sinh hoạt, lao động), có hát trơn và hát kèm theo (kèm theo khí nhạc, múa, trò chơi), có hát cuộc (hát lề lối) và hát vặt, có hát theo “bọn” (hát tập thể) và hát một người…… Thứ hai là điệu hát (tức là làn điệu nhạc của những câu hát) bao gồm cả hệ thống phong phú, từ những điệu hát mộc mạc như hát – nói – kể… đến những điệu hát đã đạt đến trình độ nghệ thuật cao (đã thành giai điệu như lý, hò, hát. ). Thứ ba là lời hát (tức là lời ca đã tước bỏ tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) còn gọi là lời thơ. Lời của ca dao chính là thơ. Từ đó, ông Đỗ Bình Trị rút ra nhận định rằng, khi nghiên cứu , giới thiệu “những câu hát – bài hát dân gian” một cách toàn vẹn hoặc chỉ riêng về mặt âm nhạc, ta gọi đó là dân ca. Còn khi nghiên cứu, giới thiệu chỉ riêng phần lời của những câu hát – bài hát ấy, ta gọi đó là ca dao.
Trong giáo trình này, để phù hợp với tình hình học tập của sinh viên khoa Ngữ văn, nói đến đối tượng nghiên cứu ca dao dân ca là chỉ nói đến bộ phận nghệ thuật ngôn từ (ca dao) nhưng nó phải đặt trong mối quan hệ khăng khít với làn điệu âm nhạc, nghệ nhân biểu diễn, thời gian và không gian diễn xướng.
2. Nội dung phản ánh của ca dao dân ca Việt Nam
Ca dao dân ca phản ánh khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên, phản ánh quá trình lao động sinh tồn của nhân dân từ xưa. Đồng thời ca dao là sự phản ánh đầy đủ và sâu sắc cuộc sống lao động
Ca dao dân ca phản ánh một cách đa dạng những tình cảm phong phú của thế giới nội tâm con người. Đó là những tâm tư tình cảm trong những phạm vi khác nhau (gia đình – xã hội) trong những lĩnh vực khác nhau (lao động, sinh hoạt…), trong những mối quan hệ khác nhau như đối với quê hương đất nước, đồng bào, trong đối nhân xử thế ngoài xã hội, trong quan hệ ruột rà máu mủ gia đình – đặc biệt là quan hệ tình yêu đôi lứa. Đây là nội dung lớn nhất, hay nhất và có đời sống sâu rộng nhất trong ca dao dân ca trữ tình nói chung
3. Đặc điểm thi pháp
a. Nhân vật trữ tình
Trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình (tức tác giả – hiện thân trữ tình của quần chúng nhân dân) luôn luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình (tức là nhân vật mà cảm nghĩ của nó được diến tả trong bài ca). Nhân vật đó, theo ông Đỗ Bình Trị chỉ có một số kiểu nhất định (giống như kiểu nhân vật trong truyện cổ tích).
Đó là cô gái và chàng trai trong quan hệ bè bạn, lứa đôi; Người vợ, người chồng, người mẹ, người con… trong đời sống gia đình; Người con gái, con dâu, người vợ trong gia đình gia trưởng; Người lính và người vợ lính trong cảnh ngộ ly biệt và xa cách; Người làm ruộng, người làm thợ, người dân chài và người trai đò trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ với xóm làng, quê hương, đất nước. Ta có thể nhận thấy qua tên chung và tên tập hợp của những nhân vật trữ tình trong ca dao, xu hướng của nhân dân muốn diễn tả những nét bản chất nhất của con người thời đại ấy.
Nhân vật trữ tình thường gắn với những đại từ nhân xưng trong ca dao, những đại từ như anh, em, mình, ta, chàng, thiếp, tôi, người, qua, bậu. và kể cả những hình ảnh xưng hô ẩn dụ như mận, đào, trúc, mai, rồng, mây, trăng, gió….
Tất cả không hề có dấu ấn cá nhân nên dễ dàng gợi được sự đồng cảm sâu xa ở người đọc.
b. Kết cấu
Ca dao dân ca, xét chung, thường rất ngắn, ca dao dân ca trữ tình lại càng ngắn. Những bài ca dao hai dòng, bốn dòng chiếm số lượng lớn hơn cả, có những bài dài hơn thì cũng chỉ trên dưới mười dòng. Với một dung lượng ngắn như thế nhưng nếu đặt ra vấn đề kết cấu ở cách thức tổ chức thanh điệu, vần, nhịp…, tổ chức nội dung, cấu tạo ý, tứ, đoạn, mạch, dài, ngắn. thì phạm vi vấn đề nghiên cứu kết cấu ca dao sẽ rất rộng. Trước đây, một số nhà nghiên cứu đã tiếp thu từ ca dao cổ trong Kinh thi Trung Quốc để phân thành ba loại kết cấu (Phú, tỉ và hứng). Một số khác dựa vào hình thức đối đáp trong đại bộ phận ca dao dân ca để chia làm đối đáp một vế và đối đáp hai vế…. Tuy còn khác nhau khá nhiều về cách nhìn nhận, tiếp cận nhưng những ý kiến ấy góp phần tích cực cho việc tìm hiểu kết cấu ca dao. Trong giáo trình này, để sinh viên bước đầu tìm hiểu và có cái nhìn bao quát, chúng tôi tổng hợp hai ý kiến của hai nhà nghiên cứu văn học dân gian là ông Đỗ Bình Trị và ông Hoàng Tiến Tựu để trình bày một số hình thức kết cấu tiêu biểu.
Một là Lối đối đáp (hay là phương thức đối thoại). Đó là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca (phần lớn là của các chàng trai, cô gái – chủ thể của những bài ca dao, đóng vai trò là nhân vật chính của cuộc đối đáp, trò chuyện). Điều này cũng là tất yếu bởi lẽ chiếm hầu hết trong kho tàng ca dao dân ca là mảng đề tài về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình.
Anh muốn đưa tay ra bẻ sợ trong chùa có sư.
Có sư thì mặc có sư
Hoặc:
Dầu mà không lấy được em
Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa
Em đố anh từ Nam chí Bắc
Sông nào là sông sâu nhất,
Anh mà giảng được cho ra
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan,
Cao nhất là núi Lam Sơn
Nhưng trong kho tàng ca dao dân ca được sưu tầm, lại có rất nhiều những lời trò chuyện chỉ có “1 vế”. Tuy nhiên, vì bản thân bài ca ấy là một lời trò chuyện nên tự nó đã có đặc tính của kết cấu đối đáp.
Ước khi nao hợp lại một nhà
Hoa thơm héo lại càng thơm,
Em giòn rách áo, đói cơm càng giòn.
Anh hỏi câu này có lấy anh không ?
Cô kia cắt cỏ bên sông
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi…
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Những lời trần thuật ở bốn câu thơ đầu chỉ để nhằm chuẩn bị cho con người tâm trạng của anh lính thú xuất hiện ở hai câu cuối cùng. Nhờ lối kể chuyện tinh tế, thân phận người lính – ở đây là cảnh ngộ và nỗi niềm – đã được diễn tả sâu sắc mà kín đáo hơn.
Hay:
Thấy mẹ nằm võng thấy cha nằm giường.
Thấy em nằm đất anh thương,
Như vậy trong phương thức trần thuật (kể chuyện) có cả phương thức miêu tả (mà là miêu tả theo cảm hứng trữ tình). Nhìn chung, những câu hát dân gian hướng về tình nghĩa, hoặc hát theo lề lối thường phù hợp với kết cấu đối đáp; còn những câu hát than thân, hoặc là những câu hát lẻ, hát vặt thường sử dụng hình thức kể chuyện. Bởi lẽ những nỗi niềm của các nhân vật trữ tình quen thuộc trong những câu hát than thân phải mượn lối kể chuyện mới dịu bớt đi những ẩn ức của tình cảm, tâm tư. Lối kể chuyện nhắc đến cảnh ngộ hơn là hoàn cảnh được kể. Câu chuyện kể trong bài ca, vì thế, thường không có “chuyện” mạch lạc theo kiểu kể sự đếm việc mà sự mạch lạc của nó lại ẩn trong logic của sự kể lể nỗi niềm.
Nhưng thật ra, thực tế ca dao dân ca cho thấy, trong không ít bài ca, có sự kết hợp giữa cả hai phương thức nêu trên. Tức là vừa đối đáp vừa kể chuyện, vừa độc thoại vừa ngầm hướng đến đối tượng để đối thoại, vừa miêu tả tự sự vừa trần thuật trữ tình…Ta có rất nhiều những bài ca như thế
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
-Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa may trắng xung quanh mây vàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
-Sáng ngày em đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu Thạch Bàn.
Hỏi rằng: “Cô ấy vội vàng đi đâu?”
Thưa rằng em đi hái dâu”
Thưa rằng: “Bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”
Tấm gương khác ở đây chính là truyền thống, hát về bài ca chính là hát theo truyền thống. Văn bản bài ca trong điều kiện truyền miệng và ứng tác tập thể đã được xây dựng từ các công thức. Công thức vừa là một yếu tố bộ phận của bài ca vừa là một yếu tố truyền thống vượt ra ngoài phạm vi của văn bản – và về bản chất, nó không phải là sở hữu của riêng bất cứ bài ca nào. Thí dụ công thức gãy đàn trong các bài ca sau:
Cầm đàn gãy đủ năm dây
Sầu riêng em chịu từ ngày ước ao
Cầm đàn ra gãy biết là có nguôi
Như vậy công thức là giao điểm của truyền thống và bài ca. Và trong hệ thống công thức truyền thống thì các công thức mẫu đề đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Mỗi công thức mẫu đề có một tập hợp các công thức chi tiết thuộc các tiểu loại khác nhau về dung lượng, nội dung và hình thức. Ví dụ mẫu đề “Mười thương” (hoặc “mười yêu”) mẫu đề “Ước muốn – hóa thân”, “Thân em như…”, “Trên trời có…”, “Còn duyên… hết duyên…” ..v.v…Có thể nói, mỗi mẫu đề truyền thống là một chỉnh thể thống nhất. Nó là văn cảnh cụ thể, trực tiếp của bài ca.
Để làm sáng tỏ thêm thành phần các công thức của một mẫu đề và sự liên kết vận động của chúng trong bài ca, xin dẫn một ví dụ minh họa (Theo Bùi Mạnh Nhị – Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình):
– Ước gì anh hóa ra hoa
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp em lăn em nằm…
Ta biến ra cá bơi vào bơi ra
Ước gì mình biến ra hoa
Sự thống nhất của các lối kết cấu:
Những bài không có kết cấu đối đáp là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca. Những bài ca dao có kết cấu kể chuyện tuy không có “đối” và “đáp” nhưng cũng thấp thoáng có bóng dáng của hai nhân vật trò chuyện. Đó là trò chuyện gián tiếp, trò chuyện trong tâm tưởng. Chẳng hạn những bài hát ru phần lớn có kết cấu kể chuyện, nhưng những bài này luôn gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người mẹ, người chị đang kể chuyện với em nhỏ, trò chuyện với em nhỏ.
Ru em em hãy nín đi,
Em đau chị cũng buồn rầu
Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ !
Có thể định nghĩa ca dao là những câu hát trò chuyện dân gian, là một lối thơ trữ tình – trò chuyện của nhân dân. Tính thống nhất của các lối kết cấu ca dao dân ca cũng chính là ở đấy.
c. Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ
Hệ thống hình ảnh:
Nhìn chung có thể chia những hình ảnh trong ca dao dân ca thành các nhóm dựa theo những tiêu chí khác nhau. Ông Đỗ Bình Trị khi phân các nhóm hình ảnh đã dựa vào các kiểu nhân vật như: Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “chàng trai – cô gái” trong quan hệ bè bạn lứa đôi; những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người phụ nữ trong những nghịch cảnh về hôn nhân và gia đình; những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người lao động trong quan hệ yêu thương gắn bó với công việc làm ăn, gia đình, quê hương, xứ sở, đồng bào”.
Nhưng dù phân chia như thế nào thì cũng không thể phủ nhận rằng ca dao dân ca, xét về phương diện ngôn từ- là những bài ca giàu hình ảnh. Trong đó, những hình ảnh so sánh, ẩn dụ là phổ biến nhất. Nói về thân phận người con gái trong xã hội phong kiến, ca dao có một loạt hệ thống hình ảnh đi kèm như Tấm lụa đào, hạt mưa rào, hạt mưa sa, giếng giữa đàng, cá rô thia, hạc đầu đình, củ ấu gai, chổi chùi chân… Nói đến đôi lứa trong tình yêu nam nữ ta thấy các hình ảnh như Đũa ngọc – mâm vàng, rồng – mây, chèo bẻo – măng vòi, thuyền – bến, mận – đào….
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai.
– Đôi ta như thể con tằm
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quýt con trong con ngoài…
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Từ đó ta nhận thấy rằng nếu so sánh mạnh về khái quát cái chung, cái bản chất thì miêu tả trực tiếp có ưu thế nêu bật cái riêng, cái chi tiết của đối tượng biểu hiện, tuy cả hai đều có chức năng cụ thể hóa nó. Những hình ảnh so sánh tập trung thể hiện nhân vật, còn miêu tả lại hướng đến cảnh vật – chủ yếu là cảnh vật thiên nhiên nhưng cũng gửi gắm vào đó tình ý của người hát.
– Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai đi đến đó, lòng không muốn về.
– Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
– Hồ Tĩnh Tâm giàu sen Bạch Diệp Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui !
Trên chợ, dưới bến, lại có gốc cây hữu tình.
Đứng ở một góc độ khác, ta lại thấy các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, những hình ảnh miêu tả lại có hai loại rõ rệt. Một là những hình ảnh giàu tính ước lệ tượng trưng (gần với văn học viết) như rồng – mây, trúc – mai, loan – phượng…Hai là những hình ảnh dân dã, bình thường, giản dị, chân thực, tự nhiên như chính đời sống vậy (nào là rau muống thả dưới hồ, trái bần trôi, củ ấu gai…; nào là cánh bèo, chiếc thuyền beo, tấm ván nổi chìm…). Tuy nhiên ngay cả những hình ảnh ước lệ khi được dân gian hóa vẫn tạo được nét đẹp rất bình dân. Chẳng hạn như
Cho loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.
– Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây Như con chim chèo bẻo xa cây măng vòi.
d. Ngôn ngữ:
Nhờ biết dựa vào ngôn ngữ dân tộc, khai thác và sử dụng ngôn ngữ dân tộc mà ca dao dân gian Việt Nam rất giàu bản sắc. Không những thế mà ca dao còn có tác động ngược trở lại ngôn ngữ dân tộc để củng cố và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Văn học dân gian vốn có tính dân tộc, tính tập thể và tính truyền miệng nên vừa thống nhất vừa rất đa dạng. Vì vậy mà hai khuynh hướng dân tộc hóa và địa phương hóa luôn diễn ra song song và tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ ca dao cũng thế. Vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương. Đọc ca dao, đứng ở góc độ ngôn ngữ các nhà nghiên cứu có thể giải mã vùng, miền với độ chính xác khá cao nhờ đặc trưng ngôn ngữ địa phương toát ra từ bài ca dao ấy.
Ca dao Bắc bộ hát giã bằng ngôn ngữ nhẹ nhàng tình tứ:
Em nâng vạt áo, em đề câu thơ
Ca dao Nam bộ lai diễn tả nội dung này bằng một cách nói rõ ràng, bộc trực hơn, dứt khoát và rạch ròi hơn:
Anh phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em…
Tuy nhiên, khi sáng tác ca dao, nhân dân chọn lựa và sử dụng ngôn ngữ theo yêu cầu của nghệ thuật thơ ca (dù là thơ ca dân gian thì cũng phải có yếu tố này) để bộc lộ tâm tình và những cảm xúc thẩm mỹ mà ngôn ngữ giao tiếp thông thường không thể nào diễn đạt được. Thật vậy, như đã trình bày ở trên, ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, tính chất biểu tượng, ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ rất đậm nét.
– Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng ?
“Tre non đủ lá” còn được hiểu là trai gái đã đến tuổi thành niên. “Đan sàng” còn có ý là kết hôn, tác thành đôi lứa. Và nếu chỉ hiểu ngôn ngữ ấy theo kiểu giao tiếp lời nói thông thường thì câu ca dao tỏ tình nêu trên sẽ không còn độc đáo và ý nghĩa nữa. Ngôn ngữ ca dao còn có quan hệ với ngôn ngữ trong thơ ca của văn học viết (Còn có hiện tượng các nhà thơ văn học viết sáng tác “ca dao”). Đứng ở góc nhìn ngược lại từ phía văn học viết, các nhà thơ ta từ cổ chí kim đã học hỏi, vận dụng rất phổ biến ca dao vào trong sáng tác của mình (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu. ). Ngược lại các tác giả dân gian cũng tiếp nhận ít nhiều ngôn ngữ văn học viết trong cách diễn đạt, lựa chọn từ ngữ…Ta đọc thử bài ca dao:
Lửng lơ vầng quế soi thềm
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này ?
Trong hệ thống khá phong phú các từ ngữ thơ ca bác học được dùng ở ca dao, có nhà nghiên cứu đã thống kê khá nhiều các danh từ riêng chỉ tên nhân vật và địa danh trong văn học viết như Kim Trọng, Thúy Kiều, Từ Hải, Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Đại Thánh, Trương Phi…. Núi Thái Sơn, sông Ngân Hà, cầu Ô
Thước… các nước Tấn, Tần, Ngô, Sở, Hán, Hồ….
– Đôi ta như điểu với ngư
Chàng như Kim Trọng, thiếp như Thúy Kiều
– Bấy lâu Hồ, Hán hai phương Ngày nay gặp mặt người thương đã rồi
– Bây giờ con tạo xoay vần
Xui nên kẻ Tấn, người Tần gặp nhau
– Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
– Sông Ngân nguyện bắc cầu Ô Thước Duyên nợ này không trước thì sau…
Cũng tìm hiểu ngôn ngữ ca dao, có nhà nghiên cứu thiên về tính chất của ngôn ngữ hơn nên nêu ra các đặc điểm biểu hiện như tính chất giản dị, mộc mạc, chân tình. Cách nói kiểu cách với những ngôn từ hoa mỹ không phải là cách biểu đạt quen thuộc của ca dao. Sau này trong văn học viết, nhà thơ nào vượt ra khỏi những quy phạm đã trở thành khuôn khổ của văn học cổ điển để sáng tác bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân, vận dụng những hình ảnh quen thuộc trong ca dao thì được gọi là nhà thơ có cách diễn đạt dân gian, thơ có chất ca dao. Ở đây điều cần lưu ý là ta không nên hiểu một cách thô thiển về tính giản dị của ngôn ngữ ca dao. Đó là sự giản dị đã được kết tinh từ lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân.
– Lên non đón gió lấy trầm, Xui ông lấy mật, giục tằm nhả tơ.
– Ai về giồng Dứa qua truông, Gió lay bông sậy, để buồn cho em….
Một tính chất khác của ngôn ngữ gắn liền với tính giản dị là tính chất sinh động. Ca dao biểu hiện cảm nghĩ một cách gợi cảm, miêu tả sự vật một cách gợi hình. Đặc điểm này thể hiện tập trung ở việc khai thác triệt để và sử dụng sáng tạo trước hết là những giá trị gợi tả dồi dào của âm thanh trong tiếng Việt (từ mô phỏng, từ láy, thanh điệu, vần…); kế tiếp là các hình thức chuyển nghĩa trong kết cấu tiếng Việt (như so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hóa, lộng ngữ…đã được trình bày ở phần hệ thống hình ảnh) và cuối cùng là hệ thống động từ và tính từ chỉ tình thái của tiếng Việt. Để chứng minh cho điều này, ta dẫn giải bài ca dao sau:
Trời mưa
Quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn
Bài ca dao miêu tả chính xác trạng thái của từng sự vật, con vật trong cơn mưa: dưa méo mó (tục ngữ: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa – dưa kết trái vào cử mưa thường không tròn quả); ốc thấy động nước, chui vào vỏ chìm xuống; tôm búng mình bơi lăng quăng hớt các sinh vật phù du; cò được dịp đục nước, tranh thủ kiếm mồi. Nghĩa bóng của bài ca dao cũng được thể hiện tài tình: trước hoàn cảnh xáo động, có hạng người bị “biến dạng” đi, có hạng người khiếp nhược co mình lại, có hạng người nhởn nhơ vô tư lự Riêng người lao động vẫn an nhiên chủ động trong công việc của mình. Chỉ có mấy từ vẹo vọ, nằm co, đánh đáo, kiếm ăn (chủ yếu là động từ) mà vẽ ra được một bức tranh sống động, tả thực cũng giỏi mà ngụ ý cũng thích đáng.
e. Thể thơ
Các thể thơ trong ca dao, còn được gọi là những thể thơ dân tộc, bao gồm thể lục bát và lục bát biến thể, thể song thất lục bát và song thất lục bát biến thể, thể vãn (3, 4 hoặc 5 chữ) và cuối cùng là thể hỗn hợp (sử dụng kết hợp với các thể kể trên).
Thể lục bát và lục bát biến thể:
– Ngập ngừng vịt lội ao sen
Bữa nay gặp lại người quen tôi mừng
– Đêm nằm mà gác tay qua
Giường không chiếu lạnh, lụy sa hai hàng.
– Đêm khuya em ngồi dựa mái hiên đình Sương sa, gió lạnh, không thấy mình vãng lai
– Hai đứa mình như con sáo tắm ao sâu
Ban ngày xa cách nhưng tối đâu đâu cũng về.
– Hai đứa mình gá nghĩa bữa nay,
Tiền nhựt em nói vậy, còn hậu lai thế nào?
Anh dứt lời than, em ruột thắt gan bào,
Anh đi về bển, em vô phòng đào nước mắt rơi.
Song thất lục bát và song thất lục bát biến thể:
– Mây trên trời bủa giăng tứ phía
Nước ngoài biển sóng dợn tứ bề
Làm sao hiệp nghĩa phu thê,
Đó chồng, đây vợ ra về có đôi.
– Miễn bậu chịu ừ, anh chẳng từ lao khổ,
Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long.
Trước sau giữ trọn một lòng
Gian lao chi sá, anh quyết một lòng theo em.
Thể vãn (vãn ba chữ, bốn chữ, năm chữ…)
– Xỉa cá mè Đè cá chép Chân nào đẹp Đi buôn men
Chân nào đen…
– Lạy giời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy bát cơm đầy
Lấy khúc cá to…
Và thể hỗn hợp (hay còn gọi là thể thơ tự do)
– Hòn đá đóng rong Vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu Bởi tại sương sa
Em thương anh chẳng dám nói ra Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời Em thấy anh cũng muốn kết đôi
Sợ vầng trăng bạc trên trời mau tan
– Tàu Nam Vang mũi đỏ, Ghe Sa Đéc mũi đen.
Em ở chi nước rẫy nước phèn,
Theo anh về chợ đốt đèn măng xông.
– Đầu đường có cây duối Cuối đường có cây đa
Ngã ba đường có dây tơ hồng
Con gái chưa chồng trong lòng hớn hở
Con trai chưa vợ mặt tợ trái chanh
Ngó lên mây trắng trời xanh
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
Trong tất cả các thể thơ vừa ví dụ nêu trên, thể thơ lục bát chiếm một số lượng rất lớn và trở thành một thể thơ tiêu biểu nhất của ca dao. Đây là một thể thơ cách luật cổ điển. Tuy không phải “thuần túy Việt Nam nhưng mang nhiều đặc trưng dân tộc, có một đời sống mạnh mẽ và vận mệnh lâu dài trong văn học Việt Nam” (Bùi Mạnh Nhị). Thật vậy, thể lục bát hàm chứa nhiều đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc về vần, nhịp, thanh điệu và được sử dụng phổ biến không chỉ trong văn học dân gian mà còn ở cả văn học viết (Lục bát truyện Kiều, lục bát Lục Vân Tiên…). Lục bát có một số dấu hiệu nhận biết rất cơ bản như số lượng âm tiết nhất định trong hai dòng thơ bắt buộc tạo nên một đơn vị tế bào lục bát; thứ tự và chức năng cấu trúc của mỗi dòng (Lục trước mở đầu, Bát sau kết thúc một đơn vị); những quy tắc về vần, nhịp, luật bằng, trắc (sự chuyển đổi vần và thanh điệu trong mỗi dòng thơ. Chẳng hạn như câu Cái cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non). Những dấu hiệu vừa nêu đều có những biến thể, tạo nên những cách tân trong thể thơ quen thuộc này. Chiếm đến hơn 90 % trong ca dao dân ca, thể thơ lục bát rất phù hợp với ngôn ngữ dân tộc và có khả năng phản ánh nhiều phương diện về đời sống. Nhạc điệu của thể thơ này rất phù hợp với các giai điệu dân ca Việt Nam ngọt ngào, trữ tình mà đa dạng, biến hóa.
Lục bát trong ca dao rất ngắn gọn (đây là một đặc điểm chứ không hẳn là một ưu điểm) với phần lớn một bài ca tương đương một đơn vị một cặp lục bát. Sở dĩ như vậy là vì ca dao – một thể loại không có cốt truyện (nên không thể triển khai ở dung lượng dài) là một thể loại trữ tình diễn tả những khoảnh khắc giây phút bùng nổ tâm trạng thường được sáng tác trong hoàn cảnh ứng tác nhanh, ngắn gọn hầu dễ nhớ, dễ lưu truyền.
g. Thời gian và không gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình là thời gian hiện tại của chính thời điểm diễn xướng (Không giống như thời gian quá khứ trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích).
Thật vậy, dù nhân vật có nói về năm xưa, hôm qua, ngày đi, ngày về thì cũng từ thời điểm hiện tại mà nói. Cứ mỗi lần bài ca được hát lên, nó lại được hiện tại hóa thời gian. Như vậy, thời gian luôn mới, luôn là thời gian hiện tại mỗi lần diễn xướng. Và vì thế, yếu tố thời gian có là quá khứ hay tương lai thì cũng được xác định từ hiện tại.
Hôm qua anh đến chơi nhà… Hôm qua tát nước đầu đình… Đêm qua ra đứng bờ ao…
Ngày đi em chửa có chồng… Bao giờ cho đến tháng mười… Sáng ngày em đi hái dâu…
Nếu thời gian trong nhiều thể loại tự sự dân gian là thời gian huyền thoại thì thời gian trong ca dao dân ca là thời gian có thực. Thời gian hư cấu, nếu có, đều mang tính chất chủ quan của tác giả. Ta có thể gọi đây là thời gian tâm lý (hay thời gian tâm trạng) được cảm nhận bằng tâm trạng, bằng sự tưởng tượng hoặc hồi tưởng.
Đã là thời gian tâm lý thì nó có muôn vàn cách biểu hiện phụ thuộc vào những cảm nghĩ, tâm tư, cảm xúc…của nhân vật trữ tình. Đó có thể là dòng chảy của năm tháng gắn bó với sự đổi thay của sự vật con người.
– Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con quấn, con quít, con bế, con bồng, con mang
– Nhớ khi anh bủng anh beo
Tay nâng chén thuốc, tay đèo múi chanh. Bây giờ anh khỏi, anh lành,
Anh mê duyên mới, anh tình phụ tôi…
Và sự cảm nhận thời gian ở đây không còn tuân thủ những nguyên tắc vật lý khoa học nữa mà là một sự cảm nhận hoàn toàn chủ quan theo tâm trạng của nhân vật:
– Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa,
Canh ba tôi nói sáng, ông trời trưa tôi nói chiều.
– Chờ em đã tám hôm nay,
Hôm qua là chín, hôm nay là mười
Trong ca dao dân ca trữ tình tồn tại hàng loạt công thức thời gian mà mỗi một công thức như thế có một ngữ nghĩa nghệ thuật riêng, đôi khi rất hiệu quả trong việc giải mã tình cảm nhân vật trữ tình trong bài ca. Nhân vật trữ tình đang hát ở một thời điểm nào thì ít nhiều ta có thể xác định điều gì đang diễn ra trong tâm trạng của nhân vật ấy. Chẳng hạn như Chiều chiều thường diễn tả nỗi buồn xa quê; Đêm qua thường gợi nhắc những nỗi nhớ về kỷ niệm; Trăm năm thường là những mong ước thề nguyền…v.v…
Không gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình là nơi nhân vật trữ tình đang đứng hoặc hình dung, suy tưởng.
Khác với không gian nghệ thuật mang tính chất phiếm chỉ trong truyện cổ tích, không gian ở đây thường được xác định. Đặc biệt là ca dao dân ca địa danh. Những tên gọi cụ thể mang tên một tỉnh, một vùng, một làng cụ thể gắn với khu vực địa lý thực tế ở thời điểm đó, một số vẫn tồn tại đến bây giờ.
– Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai.
– Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn…
– Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ Làm chi nay đợi mai chờ
Linh đinh Phong Mỹ, dật dờ Hoài An.
Tuy nhiên cũng giống như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong ca da dân ca trữ tình cũng là không gian tâm lý. Và nếu xác định được nhân vật trữ tình đang hát ở nơi nào, địa điểm nào thì ta cũng đoán biết được tâm trạng của nhân vật đang diễn ra như thế nào. Chẳng hạn như Ngõ sau là nỗi buồn nỗi nhớ; Giữa đường là nơi gặp gỡ làm quen; Bến sông là nơi ngóng trông chờ đợi..v.v….
Đôi khi những yếu tố thuộc về không gian lại tham gia vào trong lời độc thoại của nhân vật trữ tình và đóng vai trò là một đối tượng được nhân hóa để chủ thể trữ tình hướng tới; tham gia vào tình huống tạo nên kịch tính để tác động đến tình cảm nhân vật hoặc xuất hiện như là những trở ngại để giúp nhân vật thổ lộ và khẳng định tình yêu, niềm tin và lòng chung thủy
– Núi cao chi lắm núi ơi
Che khuất mặt trời chẳng thấy người thương.
– Ai đưa em đến chốn này Bên kia là núi bên này là sông
Sông thưa nước chảy đôi dòng Trai nên vợ, gái nên chồng thì nên.
– Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội, ngũ lục, cửu thập đèo cũng qua.
– Trời cao đất rộng em giữ trọn lời nguyền..
– Trăm năm ước nguyện chung tình, Trên trời, dưới nước có mình với
Cuối cùng không gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình có thể hoàn toàn là không gian đồng hiện. Đó là Biên ải với quê nhà; Ngõ sau với quê mẹ; Bờ ao với nhà người yêu….
Một Cảm Giác Rất Yomost Là Gì Thắc Mắc Yomost Nghĩa Là Gì, Một Cảm Giác Rất Yomost Là Gì
Nhiều khi cách nói thẳng, trực tiếp lại không thu hút sự chú ý, gây ấn tượng mạnh bằng cách diễn đạt ẩn dụ, đa nghĩa. Slogan – trong nhiều trường hợp – là dẫn chứng sinh động.Bạn đang xem: Yomost là gì
Nhiều khi cách nói thẳng, trực tiếp lại không thu hút sự chú ý, gây ấn tượng mạnh bằng cách diễn đạt ẩn dụ, đa nghĩa. Slogan – trong nhiều trường hợp – là dẫn chứng sinh động.Bạn đang xem: Yomost là gì
Nói cách khác, slogan là một hình thức diễn đạt cô đọng, giàu ý nghĩa và tạo ấn tượng tốt, mạnh mẽ. Dùng rất ít từ để nói được rất nhiều điều. Những yêu cầu ngặt nghèo như vậy đặt người viết slogan trước hai khả năng: hoặc tập trung nhấn mạnh các phẩm chất của một sản phẩm, thương hiệu; hoặc tìm cách vượt ra khỏi những khía cạnh cụ thể của một sản phẩm để nói đến ý nghĩa và các giá trị ngoài vật chất do nó mang lại: niềm thích thú, nỗi ước vọng, say mê, một phong cách sống…
Bạn đang xem: Cảm giác rất yomost là gì
Với trường hợp đầu, người ta thường dùng các cụm từ mang tính khái quát về phẩm chất của một sản phẩm, thương hiệu, kiểu như: “chất lượng cao”, “chất lượng tuyệt hảo”, “uy tín hàng đầu”, “người bạn đáng tin cậy”, “sản phẩm của thời đại”, (của thế kỷ), “bền – đẹp – rẻ”… Nhưng khi sử dụng cách diễn đạt này người ta sẽ gặp phải nguy cơ trùng lặp, sáo mòn vì những cụm từ có nghĩa chung chung đó có thể dùng cho hầu hết các sản phẩm, thương hiệu và trên thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp sử dụng, nhiều đến độ nhàm chán.
Không có cá tính, không thể hiện bản sắc riêng, những slogan như vậy không thể “thọ” nổi!
Một trong các phương pháp chính ở đây là “gợi” thay vì “tả thực” – như thuật ngữ của lý luận văn học. “Gợi” bằng cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ, biểu cảm, các cấu trúc từ ngữ đa nghĩa, cách nói bỏ lửng… Thực ra, cách diễn đạt này chẳng mới mẻ gì. Trong thơ ca – đặc biệt là thơ Đường Trung Quốc, thơ Haiku Nhật Bản và ca dao, tục ngữ Việt Nam – ta có thể bắt gặp nhiều dẫn chứng sinh động cho phương pháp này.
Triumph chẳng hạn. Nhãn hiệu trang phục lót cao cấp này tung ra câu slogan độc đáo: “Triumph – Thời trang và hơn thế nữa”. Hợp thời trang? Đã đành. Còn “hơn thế nữa” – tức là hơn cả chuyện thời trang? Nhưng đó là gì? Câu bỏ lửng. Nó buộc người ta phải tò mò, tìm cách giải thích, đoán định. Phải chăng slogan muốn nhấn mạnh rằng, Triumph không chỉ là một nhãn hiệu thời trang mà còn là dấu hiệu của người biết cách ăn mặc, của sự sành điệu?
Một trường hợp khác: Yomost (của Dutch Lady). Câu “Một cảm giác rất Yomost” đọc lên nghe lửng lơ, mơ hồ, gợi sự tò mò. Có cả 1.001 cảm giác “Rất Yomost” là cảm giác gì? Đi kèm slogan này còn có cả hình ảnh tĩnh hoặc động thể hiện trạng thái vui tươi, sảng khoái của các bạn trẻ xinh đẹp khi dùng sữa Yomost, như một sự minh họa. Nhưng dù sao, slogan và các hình ảnh này vẫn là một sự để ngỏ cho mọi cảm nhận, giải thích theo chiều hướng tích cực.
Cũng có nhiều trường hợp slogan có dạng cấu trúc khẳng định. Nhưng thật ra, xem xét kỹ về ý nghĩa nội dung thì nó vẫn là một cấu trúc mở, dẫn dắt trí tưởng tượng của người nghe. Chẳng hạn nhãn hiệu Aquafina: “Aquafina – phần tinh khiết nhất của bạn”.
Thay vì nói dài dòng: chất lượng vệ sinh, độ an toàn cao, slogan dùng từ “tinh khiết” – ngắn và chuẩn. Nhưng khả năng gợi lại lớn ở chỗ nó mớ rộng ý nghĩa không chỉ là nước uống mà còn là “phần tinh khiết” của cơ thể con người. Phần tinh khiết đó là gì, người nghe tự tìm cho mình câu giải thích, tuy nhiên không thể không nghĩ yếu tố nước nuôi sống cơ thể.
Câu slogan của S-Fone mới xuất hiện cũng rất ấn tượng: “S-Fone – Nghe là thấy”. Nghe mà thấy được cả những gì người ta nói? Hơi khó hiểu. Nhưng chính điều đó lại gợi sự tò mò, chú ý. Âm thanh được truyền đi rõ mồn một và “nét” đến độ làm cho người nghe có cảm giác hình dung ra ngay từng cử chỉ, trạng thái của người nói. Không cần trực tiếp nói chất lượng cao mà vẫn thể hiện chất lượng dịch vụ. Cấu trúc câu ngắn đến mức tối thiểu, nhịp dằn mạnh, thể hiện sự khẳng định chắc nịch…
Một số câu slogan nổi tiếng trên thế giới:
Harley – Davidson (mô tô phân khối lớn): “Sống để rong ruổi, rong ruổi để sống” (Live to ride, ride to live).
Philips (sản phẩm điện tử gia dụng): “Hãy làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn” (Let’s make things better)
CK (quần jean thời trang): “Hãy là chính mình, dù tốt, dù xấu” (Be yourself, be good, be mad)
Citibank (dịch vụ ngân hàng 24/24 giờ): “Thành phố (đồng âm với Citi) không bao giờ ngủ” (The City never sleeps)
Ý Nghĩa Biển Số Xe 11640 Là Gì?
Ngoài ra, theo ngũ hành, 11 thuộc mệnh Kim, nên con số này rất hợp với những người mệnh Kim và Thủy vì Kim sinh Thủy. Nhưng theo quy luật ngũ hành, Kim khắc Mộc nên những người mệnh Mộc không nên sử dụng con số này. Bởi nó sẽ mang lại những điều tiêu cực, sẽ gây cản trở công việc của bạn và dễ rước họa vào thân.
» Dãy số chứa 16 mang thêm ý nghĩa là Nhất lộc
Theo phiên âm Hán Việt, số 1 được đọc là nhất, số 6 là lục, đọc chệch là lộc, nên khi đi cùng với nhau tạo nên con số 16 có thể được hiểu là nhất lộc. Đúng như vậy, nhiều người có quan niệm rằng 16 là con số đẹp và mang lại nhiều may mắn tài lộc, phú quý, giàu sang. Chính vì thế, số 16 rất được săn đón bởi các chủ xe với niềm tin may mắn, thuận lợi, mọi việc hanh thông mà con số này mang lại.
» Dãy số chứa 64 mang thêm ý nghĩa là Lộc Tử – Lộc bốn mùa
Con số 64 được giải nghĩa dựa trên việc giải mã cấu trúc cấu thành nó. Nếu số 6 luôn được mọi người tin rằng đây là con số lộc thì số 4 lại là con số gây ra nhiều tranh cãi. Bởi nó có cả hàm ý tích cực và tiêu cực. Thứ nhất, theo cách phát âm trong tiếng Trung, số 4 được đọc là “tứ”, gần giống với chữ “tử” mà tử là biểu trưng cho sự chết chóc, đau thương và mất mát. Vì vậy, khi ghép lại sẽ thành “lộc tử”, nghĩa là không có lộc, thế nên có nhiều người có cái nhìn không tốt với con số này.. Thứ hai, số 4 còn là con số may mắn và tượng trưng cho sức mạnh của con người và vũ trụ. Khi nhắc đến số 4, chúng ta cũng thường nghĩ đến 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, 4 đức tính cần, kiệm, liêm, chính, tứ đức với công, dung, ngôn, hạnh hay 4 hướng đông, tây, nam, bắc. Như vậy, khi nhìn theo hướng này, con số 64 được hiểu như là “bốn mùa hạnh phúc”. Sở hữu con số này, bạn sẽ có một cuộc sống bình an, hạnh phúc và gặp được nhiều điều tốt đẹp. Nhìn chung, mỗi người sẽ có một cách nhìn nhận khác nhau. Thế nhưng, dù hiểu theo nghĩa nào, các con số này chỉ như một phần nhỏ góp phần tạo niềm tin, động lực chứ tất cả sẽ phụ thuộc vào sự cố gắng và nỗ lực của bạn.
» Dãy số chứa 40 mang thêm ý nghĩa là Tứ không
Xoay quanh con số 40 trên biển số xe, nhiều người cho rằng đây là một con số không may mắn. Bởi con số 40 được kết hợp từ con sô 4 có nghĩa là tử và con số 0 có nghĩa là không có gì. Vì thế, có nhiều chủ xe cảm thấy ai ngại khi lỡ bấm phải con số này. Thế nhưng, trong dân gian, con số 40 thường được hiểu theo một ý nghĩa tích cực hơn. Đó là con số này tượng trưng cho mọi nguy hiểm được hóa giải và báo trước một vận mệnh mới. Trong đó, số 40 sẽ được hiểu là “bốn không”, tức là không làm, không nói, không nghe, không nhìn. Và khi thực hiện được những điền này thì tâm sẽ tịnh, thân thể an lạc, từ đó bình tĩnh và vượt qua được mọi khó khăn, thử thách.
» Dãy số chứa 116 mang thêm ý nghĩa là Nhất nhất lộc, song nhất lộc
Con số 116 được tạo thành từ hai trong các con số may mắn nhất trong dãy số tự nhiên. Trong đó, số 1 là con số sinh, biểu tượng cho sự độc nhất, sự khởi đầu cho những điều tốt đẹp. Trong khi đó, theo phiên âm Hán Việt, số 6 được đọc là “lục” và đồng âm với từ lộc. Do đó, đây được xem là một con số đại diện cho sự phát tài, phát lộc. Chính vì vậy, theo các chuyên gia phong thủy, số 116 có ý nghĩa tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở về con đường tài vận và mở ra nhiều cơ hội mới cho người sở hữu nó. Từ đó, họ có thể nhận được nhiều điềm báo may mắn, tài lộc dồi dào; có được cuộc sống sung túc và thịnh mãn trong tương lai.
Số 11640 còn có ý nghĩa là “Phù trầm biến hóa – Cẩn thận được an”Có nhiều phương pháp đã và đang được áp dụng để tính toán, dịch ý nghĩa biển số xe theo phong thủy. Theo đó, phương thức dịch dựa trên phép chia cho 80 là một trong những cách phổ biến để xác định được ý nghĩa của biển số xe mà mình đang sở hữu.
Công thức tính đối với biển số 11640 như sau:
Bước 1: 11640 / 80 = 145.500
Bước 2: 145.500 – 145 = 0.500
Bước 3: 0.500 * 80 = 40
» Con số phong thủy 40 mang thêm ý nghĩa là: Phù trầm biến hóa – Cẩn thận được an
Hung: Giàu mưu lược, dũng cảm hơn người, thiếu uy vọng, phỉ báng công kích, thích mạo hiểm đem đến hung vận. Bệnh nhược, đoản mệnh, cô quả đều đến từ quẻ này. Nam nữ kỵ dùng.
Ý Nghĩa Biển Số Xe 14072 Là Gì?
Đầu tiên, một số người cho đây là một con số không may mắn. Bởi theo quan niệm dân gian, con số 7 được xem là “thất” và con số 2 được xem là “mãi mãi”, nên khi ghép hai con số này với nhau sẽ thành “thất mãi” – thất bát mãi mãi, không thể phất lên nổi. Vì thế nhiều người không thích con số này vì họ sợ nó sẽ đem đến vận hạn, gây cản trở công việc cũng như cuộc sống không ấm êm, hạnh phúc.
Dưới 10.000.000 ₫
Biển số xe 14072 của bạn không có giá trị cao.
Số 1 (nhất – chắc chắn): Trong phong thủy, số 1 trong biển số xe mang ẩn ý cho sự tuyệt đối, duy nhất và độc lập. Trong đó, những biển số xe mang con số ngũ linh 111.11 hoặc 1111 luôn được những đại gia với thú chơi xe săn lùng. Thế nhưng, với ý nghĩa đặc biệt của những con số này, những người có tiền cũng chưa chắc có thể mua được biển số này.
» Số 4 nghĩa là Số 4 (Tứ) – Tử, ý nghĩa của sự chết chóc, con số không may mắn
Số 4 (tứ – tử): Theo tiếng Hán, số 4 là tứ, đọc chệch sẽ thành “tử”. Điều này thể hiện cho sự chết chóc. Vì thế, số 4 được xem là con số không may mắn trên biển số xe. Cũng chính vì vậy, khi làm biển số xe nên tránh con số này, trừ khi đó là con số ngũ linh.
» Số 0 nghĩa là Số 0 (Bất): sự khởi đầu, bắt đầu
Ý nghĩa số 0 trên biển số xe tượng trưng cho sự khởi đầu, sinh sôi nảy nở của vạn vật. Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng đây là một con số vô nghĩa và trống rỗng. Người xưa thường có câu “Bắt đầu từ con số 0”, do đó số 0 trong biển số xe đại diện cho sự bắt đầu và tốt hay xấu, may mắn hay không còn phụ thuộc vào ý kiến và góc nhìn của mỗi người.
» Số 7 nghĩa là Số 7 (Thất) – Sự thất bát, mất mát
Số 7 (thất): Khi bình xét về biển số xe, số 7 thường được hiểu là sự thất bát, đen đủi, mất mát. Ngoài số 4, đây cũng được xem là con số không may mắn. Do đó, khi chọn mua xe và biển số xe, các chủ xe thường tránh con số này.
» Số 2 nghĩa là Số 2 (Nhị) – Mãi mãi và bền lâu
Số 2 (nhị – mãi mãi): Trong biển số xe, số 2 mang ý nghĩa cho sự mãi mãi và trường tồn. Con số này cũng tượng trưng cho 1 cặp nên nó mang hàm ý thể hiện một cặp song hỷ, hạnh phúc và may mắn. Vì thế, số 2 là một trong những con số được mọi người ưa thích và càng đẹp hơn khi nó đi cùng với số 8 hoặc số 6.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bè Ca Mắc Là Gì? Ý Nghĩa & Cách Sử Dụng “Bè Ca Mắc” Trên Tiktok trên website Wyfi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!